Khi đọc thánh vịnh 94 chúng ta nhận thấy nó gồm nhiều yếu tố văn chương khác nhau. Đây là điều thường xảy ra trong nhiều thánh vịnh. Sự kiện này khiến cho khó có thể hiểu được sự thống nhất sáng tác và nhận diện ra một cách chắc chắn văn thể của nó. Thật thế thánh vịnh 94 có các đề tài riêng của các lời than van công cộng. Bên cạnh đó là các để tài tạ ơn cá nhân cũng như các đề tài khôn ngoan và ngôn sứ. Tuy nhiên, khi duyệt xét kỹ có thể kết luận rằng thánh vịnh là một lời than van công cộng, được đặt vào miệng của một cá nhân đem vào trong đó kinh nghiệm và sự khôn ngoan riêng của mình.
Các sự dữ than phiền ở đây không đến từ các thù địch bên ngoài, nhưng phát xuất từ các kẻ thù bên trong của quốc gia, là các kẻ gian ác (c.3), lũ bất lương (c.5). Sự dữ mà họ gây ra không chỉ là mọi thứ bất công làm thiệt hại cho các tầng lớp yếu đuối và không được bênh đỡ trong dân (cc.5-6), mà cũng còn, và có lẽ còn hơn nữa, là sự dữ luân lý tàn hại đối với niềm tin của dân Israel. Cái chắc chắn của chúng tưởng có thể thoát được cái nhìn dò xét và báo oán của Thiên Chúa là một xúc phạm tới xác tín sấu thẳm của dân nước Israel đối với sự thức tỉnh thấu suốt mọi sự của Giavê Thiên Chúa (cc.9-11). Cũng là nạn nhân như đa số người tốt lành trong dân, tác giả thánh vịnh gióng lên tiếng nói chống lại mọi thứ bất công để cảnh cáo những kẻ lạc đường, bằng cách chỉ cho thấy sự vô lý của các xác tín không có luận lý của họ, và sau cùng để bảo đảm với những người tốt lành sự chú ý và lo lắng của Thiên Chúa trong việc bênh vực họ. Như là thí dụ tác giả kể lại kinh nghiệm niềm tin của chính mình trong những lúc gặp hiểm nguy, nhưng được Thiên Chúa bênh vực cứu giúp.
Văn thể là loại hỗn hợp: lời than van công cộng cùng với các yếu tố khôn ngoan và lời tạ ơn cá nhân. Thánh vinh gồm lời kêu gọi mở đầu, các câu 1-3; phần trình bầy trường hợp, các câu 4-7; lời cảnh cáo, các câu 8-11; lời công bố sự sốt sắng của Thiên Chúa, các câu 12-15; kinh nghiệm cá nhân của tác giả, các câu 16-22, và khẳng định kết thúc, câu 23.
Trong phần mở đầu tác giả kêu lên Thiên Chúa, vì như là Thẩm phán báo oán cho công lý bị xúc phạm, ngài sẽ chấm dứt thái độ chiến thắng huyênh hoang của các kẻ gian ác.
“Lạy Chúa là Chúa Trời trả báo, lạy Chúa Trời trả báo, xin Ngài quang lâm!
Đấng xét xử địa cầu, xin đứng dậy, trả cho lũ kiêu căng xứng việc chúng làm. Đến bao giờ, lạy Chúa, đến bao giờ bọn ác nhân cứ mãi hỷ hoan?”
“Ôi lậy Giavê, Thiên Chúa của sự báo oán”: dịch sát chữ là Thiên Chúa của các báo thù”. Với tính từ này Thiên Chúa được nhìn trong cương vị là Đấng thưởng phạt, nghĩa là Đấng bênh vực các người bị áp bức và trừng phạt mọi bất công. Ngôn sứ Isaia gọi Giavê là “Thiên Chúa của các thưởng phạt” (Is 51.56). Xét vì nhiệm vụ này khó có thể được chu toàn bởi một vị thẩm phán nhân loại, con người trong Thánh Kinh kêu lên toà án của Thiên Chúa để Ngài tái lập quyền bị chà đạp. Ngôn sứ Isaia cũng nói đến “ngày báo thù” của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa của các báo thù, xin giãi sáng!”: sự can thiệp phán xử của Thiên Chúa được coi như một biểu lộ vinh quang của Ngài.
“Hãy chỗi dậy!”: đó cũng là lời tác giả thánh vịnh 7 xin với Chúa: “Lạy Chúa, trong cơn thịnh nộ, xin đứng lên chế ngự lũ quân thù hung hãn. Xin Ngài thức dậy bênh vực con, Ngài là Đấng cầm cân nảy mực.” (Tv 7,7).
“Thẩm phán của trái đất”: trong tước hiệu này của Thiên Chúa khiá cạnh tích cực của sự cứu thoát thường được nhấn mạnh nhiều hơn là sự trừng phạt. Nhưng ở đây khiá cạnh trừng phạt mạnh hơn.
Sau lời kêu gọi mở đầu tác giả thánh vịnh trình bầy với Thiên Chúa trường hợp của quốc gia bị khổ đau vì các bất công phải chịu, nhất là những người yếu đuối bị ức hiếp bởi kẻ gian ác không ngần ngại và không có niềm tin.
”Quân làm điều ác những ba hoa buông lời hỗn xược, những vênh váo ngang tàng. Chúng chà đạp dân riêng Ngài, lạy Chúa, hà hiếp dân Ngài chọn làm gia sản. Chúng giết người quả phụ, giết khách ngoại kiều, tàn sát cả cô nhi! Chúng bảo rằng: “Chúa đâu có thấy, Thiên Chúa nhà Gia-cóp chẳng lưu tâm! “
“Chúng nói xấu, chúng nói các điều hỗn xược”: ở đây kiểu ăn nói xấc láo và sát nhân của các kẻ gian ác chắc chắn ám chỉ việc chà đạp công lý. Đây là sự dữ thường được than phiền trong các thánh vịnh cũng như trong lời rao giảng của các ngôn sứ. Tác giả thánh vịnh 73 tố cáo bọn gian ác như sau: “Chúng chế giễu, buông lời thâm độc, lại kiêu căng bàn chuyện ức hiếp người; miệng chẳng từ xúc phạm trời cao, lưỡi tự do tung hoành cõi đất.” (Tv 73,8-9).
“Chúng giết quả phụ, khách ngoại kiều và tàn sát cả cô nhi”: qủa phụ, khách ngoại kiều và cô nhi là ba lớp người yếu đuối nhất trong xã hội đông phương cổ nói chung. Họ là các giai tấng xã hội không được bênh đỡ và là mồi ngon cho sự áp bức của những kẻ quyền thế gian tham ác độc. Vì thế, bổn phận bênh vực họ là một bổn phận rất được chú ý trong Thánh Kinh Cựu Ước. Ngôn sứ Isaia ghi lại lời Chúa phán với dân Israel như sau: “Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu. Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ.” (Is 1,15-17). Thiên Chúa là “Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ” (Tv 68,6), là Đấng bảo vệ các quyền lợi của họ (Đnl 10,18).
”Giavê không trông thấy”: có nghĩa là Ngài không lo lắng gì tới, Ngài sẽ không can thiệp để trừng phạt các bất công. Tác giả thánh vịnh 10 miêu tả kẻ gian ác như sau: “Nó nhủ thầm: “Thiên Chúa đã quên, Người che mặt, chẳng bao giờ thấy nữa.” Lạy Chúa, xin đứng dậy ra tay, xin đừng quên những người nghèo khổ. Sao kẻ ác dám khinh thường Thiên Chúa, dám nhủ thầm: “Chúa chẳng phạt dâu! ” Nhưng Chúa nhìn nỗi khổ cực đau thương, Chúa để ý, tự tay lo liệu. Người yếu thế giao phó đời mình cho Chúa, kẻ mồ côi được chính Chúa phù trì.”(Tv 10,11-13)
Trong các câu 8-11 của thánh vịnh 94 tác giả đối chiếu niềm tin của mình nơi Thiên Chúa, là Đấng không chỉ trông thấy, vì Ngài là Đấng trồng tai và nặn mắt cho con người, nhưng còn biết lượng định một cách hoàn hảo cái vô ích của con người, khi nó nổi lên chống lại chương trình của Thiên Chúa. Việc chống đối ấy được làm dưới dạng của lời cảnh cáo có giọng điệu khôn ngoan.
“Hãy lưu tâm, này quân đần độn nhất trên đời! Bao giờ mới nên khôn, hỡi đồ ngu xuẩn? Đấng từng gắn đôi tai há lại không nghe được? Đấng nặn thành cặp mắt chẳng lẽ không thấy gì? Đấng sửa trị muôn dân lẽ nào không trừng phạt? Đấng dạy dỗ con người mà chẳng biết gì sao? Tư tưởng phàm nhân, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài!”
“Giữa dân chúng”: lời cảnh cáo được hướng tới những người thuộc chính dân được tuyển chọn, là gia nghiệp của Thiên Chúa nhà Giacóp. Điều này khiến cho sự vô lý của họ càng nghiêm trọng hơn nữa.
“Trồng tai, nặn mắt”: cái tai được coi như một cây ăn rễ sâu trong đầu. Thiên Chúa làm cho con người có tai để nghe có mắt để nhìn như viết trong sách Châm Ngôn (Cn 20,12). Như thế làm sao mà con người lại không nghe và không thấy được? Đây là câu hỏi hùng biện nhằm nêu bật cái vô lý của sự kiện thường gặp trong nền văn chương khôn ngoan.
Nếu Thiên Chúa là Đấng cảnh cáo các dân tộc, thì Ngài lại càng cảnh cáo dân được tuyển chọn hơn nữa. Kẻ khờ dại khẳng định Thiên Chúa không trông thấy, không hiểu, nhưng như thế là chứng minh tỏ tường cho thấy cái vô ích của tử tưởng phàm nhân. Theo lòng tin Thiên Chúa là Đấng toàn tri. Ngài quán thông và thấy hết mọi sự.
Các câu 12-15 của thánh vịnh 94 chứng minh cho thấy xác tín của các kẻ gian ác liên quan tới sự thờ ơ xa vắng của Thiên Chúa đối với các hoạt động gian ác xấu xa của họ, hoàn toàn sai lầm. Vì Thiên Chúa lo lắng bảo vệ người công chính.
”Lạy Chúa, hạnh phúc thay kẻ được Ngài giáo huấn, được Ngài lấy luật mà dạy dỗ bảo ban. Ngài cho họ được bình an trong ngày hoạn nạn, trong khi huyệt mả sẵn chờ kẻ ác nhân. Vì Chúa không ruồng rẫy dân Người, chẳng bỏ rơi dân Người chọn làm gia sản; công lý rồi ra sẽ trở lại pháp đình, mọi tâm hồn chính trực sẽ tuân theo.”
“Phúc cho ai…” là công thức dẫn nhập của thể văn khôn ngoan (Tv 1,1; 112,1; 119,1).
Người công chính được Thiên Chúa cảnh cáo và dậy dỗ trong lề luật Ngài. Và họ thực thi lề luật Chúa. Đó là các nét khiến cho họ khác với phường gian ác. Trái với xác tín của kẻ gian ác Thiên Chúa không thờ ơ trước cảnh dân Ngài bị áp bức. Bởi nếu không, thì đó sẽ là một bẻ gẫy giao ước Ngài đã ký kết với cha ông họ xưa kia. Trái lại, Thiên Chúa ở bên cạnh dân và bênh vực họ, chứ không xua đuổi họ khỏi sự hiện diện của Ngài cũng không bỏ rơi họ trong âu lo (Tv 27,9).
Các câu 16-22 là kinh nghiệm tác giả chia sẻ liên quan tới sự lo lắng của Thiên Chúa bênh vực ông trong quá khứ. Thiên Chúa cũng biểu lộ cùng sự lo lắng đó với dân của Ngài bị áp bức.
”Ai đứng dậy giúp tôi chống bọn làm điều ác? Ai sát cánh cùng tôi cự lại lũ gian tà? Chúa mà đã chẳng thương phù trợ, thì hồn tôi đã vào chốn thinh lặng ngàn thu. Lạy Chúa, khi con nói: “Này chân con lảo đảo”, tình thương Ngài đã đỡ nâng con; lúc ưu tư đầy ắp cõi lòng, ơn Ngài an ủi khiến hồn con vui sướng. Lẽ nào Chúa liên minh với bọn thẩm phán ác ôn, bọn gieo tai rắc hoạ chẳng kể gì luật pháp? Chúng tìm hại mạng sống người lành, lên án tử cho người vô tội. Nhưng Chúa là thành luỹ chở che, Chúa tôi thờ là núi đá cho tôi trú ẩn.”
“Đứng dậy” “qum” là động từ diễn tả hành động bảo vệ hay tố cáo trong cuộc tranh luận phán xử và sự can thiệp của Thiên Chúa bênh vực các tín hữu.
“Nơi ở của thinh lặng” là “Sheol” âm ty âm phủ, nơi sự thinh lặng của cái chết thống trị (Tv 115,17).
“Toà án bất công”: các lời kết án bất công thiệt hại cho người vô tội được đưa ra chống lại luật được thiết định tại Israel là gốc rễ và biểu tượng của tất cả mọi sự dữ gây đau khổ cho dân được tuyển chọn.
Thánh vịnh kết thúc với khẳng định Thiên Chúa sẽ lắng nghe lời van nài của người công chính.
”Tội của chúng, Người đổ trên đầu chúng, Người tiêu diệt chúng vì điều dữ chúng làm, Giavê là Thiên Chúa của ta, sẽ tiêu diệt chúng.”
Linh Tiến Khải